BPO - Nam Cao là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của trào
lưu hiện thực phê phán thời kỳ 1940-1945, là một trong những cây bút tiêu biểu
của văn xuôi Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1945-1954.
Với 15 năm cầm bút, ông đã để lại một văn nghiệp đồ sộ với 2 tiểu
thuyết, 50 truyện ngắn, bút ký…, trong đó có những nhân vật như lão Hạc, giáo Thứ,
Bá Kiến, Thị Nở, Chí Phèo … không thể phai mờ trong tâm trí người đọc nhiều thế
hệ.
* Nhà văn hàng đầu của chủ nghĩa hiện thực
Nam Cao viết truyện đầu tay lúc chưa tròn 20 tuổi, viết tác phẩm xuất sắc Chí Phèo lúc 26 tuổi, viết tiểu thuyết Sống mòn lúc 29 tuổi, viết bài ký Định mức phục vụ kháng chiến (1951). Với 15 năm cầm bút, ông đã kịp để lại một khối lượng tác phẩm không nhỏ, đặc biệt trong hệ thống tác phẩm của ông, nổi bật một phong cách Nam Cao trữ tình, sâu lắng, trào lộng, xót xa, hóm hỉnh mà tế nhị, sang trọng mà bình dị, tinh vi mà khái quát.
Ở đây có cả văn chương, có cả tâm huyết, có cả tài năng lớn của một ước vọng nhân văn cao đẹp mà nhà văn ký thác với cuộc đời. Sự nghiệp văn chương của Nam Cao có thể chia làm 2 thời kỳ rõ nét: Trước cách mạng và sau cách mạng.
Ngay từ những bước đi ban đầu, Nam Cao là một nhà văn hiện thực trong khả năng khái quát những mặt bản chất của xã hội cũ. Khi vật lộn kiếm sống ở Sài Gòn, ông nhận làm thư ký cho một hiệu may và bắt đầu viết các truyện ngắn Cảnh cuối cùng, Hai cái xác.
Các truyện ngắn của ông: Nghèo, Đui mù, Những cánh hoa tàn, Một bà hào hiệp với bút danh Thúy Rư được đăng trên “Tiểu thuyết thứ bảy” và báo “Ích hữu”. Trở raBắc , Nam
Cao dạy học ở trường tư thục Công Thành, đường Thụy Khuê, Hà Nội. Phát xít Nhật
vào Đông Dương, trường bị trưng dụng, Nam Cao thôi dạy học. Truyện ngắn Cái
chết của con Mực, và các bài thơ của ông đăng trên báo “Hà Nội Tân văn” với các
bút danh Xuân Du, Nguyệt.
Năm 1941, tập truyện đầu tay Đôi lứa xứng đôi (tên trong bản thảo là Cái lò gạch cũ) của Nam Cao do Nhà xuất bản Đời mới (Hà Nội) ấn hành được đón nhận như là một hiện tượng văn học thời đó. Sau này, khi in lại, Nam Cao đã đổi tên là Chí Phèo.
Tác phẩm Chí Phèo - một truyện ngắn xuất sắc được viết từ cái làng yêu dấu gắn với tuổi thơ của ông với những câu chữ đau vào tận gan ruột, viết về số phận người nông dân bị xã hội thực dân phong kiến đàn áp, biến dạng từ bần cùng hóa đến lưu manh hóa, đánh dấu bắt đầu sự nghiệp văn học của ông.
Từ tác phẩm để lại dấu ấn này, cho đến năm 1944, là thời kỳ sáng tác sung mãn và có hiệu quả nhất trong đời viết văn của Nam Cao. Ông đã đạt tới đỉnh cao chất lượng mới: Chất lượng ngôn ngữ nghệ thuật, chất lượng tư duy xã hội và tư duy văn học.
Trong các trang viết của mình, Nam Cao đã nhìn thấy và chỉ cho người đọc thấy cái xã hội trong nô lệ và lạc hậu xứ mình, cái xã hội phân chia đẳng cấp, bất công và phi nhân ấy đã làm tha hóa, biến dạng, biến chất con người ta như thế nào.
Xét một cách tổng thể, sáng tác của ông trước cách mạng tập trung vào hai đề tài lớn: Người tiểu tư sản nghèo và người nông dân, khai thác trực tiếp từ cuộc sống bản thân tác giả và bà con nông dân làng quê... Miêu tả chân thực cuộc sống nghèo khổ, tủi nhục của người tiểu tư sản, Nam Cao đặc biệt đi sâu vào những đau đớn trong tâm hồn của họ và đặt ra những vấn đề có ý nghĩa xã hội sâu sắc.
Đó là cái bi kịch của những kẻ khao khát sống cuộc sống có ý nghĩa chân chính mà cứ bị những lo lắng cơm áo hàng ngày giày vò, phải sống cuộc sống "đời thừa" vô nghĩa như các tác phẩm: Đời thừa, Nước mắt, Trăng sáng, Bài học quét nhà.
Nhiều truyện của Nam Cao cũng đã ghi lại cuộc đấu tranh tư tưởng của người tiểu tư sản, đấu tranh với sự cám dỗ của cuộc sống hưởng lạc tư sản (Quên điều độ, Trăng sáng, Truyện tình); đấu tranh với lối sống ích kỷ, dung tục tiểu tư sản để vươn tới lẽ sống nhân đạo.
Truyện dài Sống mòn (1944) là sự tổng hợp của những sáng tác về đề tài tiểu tư sản của Nam Cao. Truyện dài Truyện người hàng xóm (đăng báo 1944) miêu tả cuộc sống lam lũ tối tăm của một xóm nghèo ngoại ô, nhưng ánh lên cái nhìn lạc quan nhân đạo của những người nghèo khổ.
Với hơn hai chục truyện ngắn viết về nông dân (Chí Phèo, Lão Hạc, Một đám cưới, Một bữa no, Lang Rận, Điếu văn, Mua danh, Tư cách mõ...) Nam Cao đã dựng lên bức tranh về nông thôn ViệtNam
những năm 1940-1945. Nhà văn thường đi vào cuộc sống những kẻ cùng khổ, thấp cổ
bé họng, bị ức hiếp nhiều nhất. Đặc biệt đi sâu vào nỗi khổ của tâm hồn bị đày
đọa, nhân phẩm bị xúc phạm và đã khẳng định mạnh mẽ bản chất đẹp đẽ của họ ngay
cả khi họ bị vùi dập đến mất cả hình người, tình người.
Cùng với nhà văn hiện thực xuất sắc Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, các tác phẩm của Nam Cao thời kỳ 1941-1944 đã góp phần không nhỏ vào thành tựu của dòng văn học hiện thực ViệtNam
nửa đầu thế kỷ XX.
Sau Cách mạng Tháng Tám, ngòi bút Nam Cao hoạt động với tư cách ngòi bút của một cán bộ làm báo, làm văn. Ngoài viết văn, ông còn viết tin, làm ca dao, soạn kịch ngắn tuyên truyền, viết hoặc dịch sách phổ thông về địa lý, lịch sử, thời sự. Ông coi đó là “những công việc nhũn nhặn, thầm lặng nhưng có ích”.
Trong mảng sáng tác sau cách mạng, Nam Cao đã để lại nhiều sáng tác có giá trị đặc sắc và tiêu biểu cho văn xuôi kháng chiến thời kỳ đầu. Nhật ký ở rừng (1948) viết trong thời kỳ ông công tác tại Bắc Kạn, đã thể hiện niềm yêu thương ấm áp đối với quần chúng miền núi chất phác mà thiết tha với cách mạng, niềm quyết tâm và tin tưởng của người nghệ sĩ tiểu tư sản trung thực đang nỗ lực vươn lên trong cuộc sống mới.
Truyện ngắn Đôi mắt (1948) là một truyện ngắn thành công nhất của Nam Cao trong kháng chiến. Chuyện biên giới và bút ký Vài nét ghi qua vùng giải phóng viết trong dịp nhà văn tham gia chiến dịch Cao Bằng-Lạng Sơn (1950), là những ký họa sinh động, tràn ngập không khí lạc quan, có những hình ảnh giản dị, đẹp đẽ về chủ nghĩa anh hùng, tất cả toát lên vẻ đẹp và sức mạnh tinh thần của bộ đội, nhân dân trong chiến dịch.
Nghệ thuật viết truyện của Nam Cao có những đặc sắc, độc đáo mà đa dạng. Các tác phẩm của ông vừa rất mực chân thành vừa có một ý vị triết lý, một ý nghĩa khái quát sâu xa. Ngòi bút hiện thực tỉnh táo, nghiêm ngặt vừa sắc lạnh, vừa gân guốc, lại vừa thắm thiết trữ tình.
Nhà văn tỏ ra có sở trường miêu tả tâm lý con người, nhất là khi đi vào miêu tả diễn biến tâm lý tinh tế, phức tạp. Ngôn ngữ văn xuôi của ông cũng mới mẻ, gần gũi với ngôn ngữ của quần chúng, giản dị mà đậm đà, sống động nhất là trong ngôn ngữ đối thoại. Có thể nói, về nhiều mặt, các tác phẩm của Nam Cao đánh dấu một bước phát triển mới của văn xuôi quốc ngữ ViệtNam .
* Một vài nét về cuộc đời nhà văn, liệt sĩ Nam Cao
Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri, sinh ngày 29-10-1915 tại làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Xang, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam). Cha ông là Trần Hữu Huệ (1890-1967) thợ mộc, làm thuốc, mẹ là Trần Thị Minh, làm vườn, làm ruộng, dệt vải. Vợ Nam Cao là bà Trần Thị Sen (1916-2002). Nhà văn Nam Cao có 4 người con (3 trai, 1 gái).
Khi còn nhỏ Nam Cao học ở làng và thành phốNam Định. Học xong trung học, ông
vào Sài Gòn sống gần ba năm với một người cậu. Từ 1936, bắt đầu viết văn trên
các báo: Tiểu thuyết thứ bảy, ích hữu... Năm 1938 ông dạy học tại một trường ở
ngoại ô Hà Nội và viết báo.
Năm 1941, ông dạy học ở Thái Bình. Năm 1942, ông trở về quê, tiếp tục viết văn. Năm 1943, Nam Cao gia nhập Hội Văn hoá Cứu quốc và tham gia phong trào Việt Minh ở địa phương. Cách mạng Tháng Tám (1945), ông tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở phủ Lý Nhân, và được cử làm Chủ tịch xã.
Năm 1946, ông ra Hà Nội, hoạt động trong Hội Văn hóa Cứu quốc và là Thư ký tòa soạn tạp chí Tiên Phong của Hội. Cùng năm đó, ông tham gia đoàn quânNam
tiến với tư cách phóng viên, hoạt động ở Nam Trung Bộ một thời gian. Sau đó lại
trở về nhận công tác ở Ty Văn hóa Hà Nam .
Mùa thu năm 1947, Nam Cao lên chiến khu Việt Bắc, làm phóng viên báo Cứu quốc và làm thư ký tòa soạn báo Cứu quốc Việt Bắc. Năm 1948, Nam Cao gia nhập Đảng cộng sản Đông Dương. Năm 1950, ông nhận công tác ở tạp chí Văn Nghệ (thuộc Hội Văn nghệ Việt Nam) và là ủy viên Tiểu ban Văn nghệ Trung -ương.
Ngày 30-11-1951, trên đường đi công tác vào vùng địch hậu liên khu III, Nam Cao cùng đoàn cán bộ thuế nông nghiệp bị địch phục kích và đã anh dũng hy sinh. Ông ngã xuống khi trang bản thảo cuối cùng của tác phẩm “Định mức” còn chưa khô mực.
Ông đã được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học, Nghệ thuật (đợt 1, 1996) cho các tác phẩm: Nhật ký ở rừng, Đôi mắt (truyện ngắn), Sống mòn (tiểu thuyết), Truyện ngắn chọn lọc (xuất bản năm 1964), Chí Phèo (truyện ngắn), Nửa đêm (truyện ngắn).
* Nhà văn hàng đầu của chủ nghĩa hiện thực
Nam Cao viết truyện đầu tay lúc chưa tròn 20 tuổi, viết tác phẩm xuất sắc Chí Phèo lúc 26 tuổi, viết tiểu thuyết Sống mòn lúc 29 tuổi, viết bài ký Định mức phục vụ kháng chiến (1951). Với 15 năm cầm bút, ông đã kịp để lại một khối lượng tác phẩm không nhỏ, đặc biệt trong hệ thống tác phẩm của ông, nổi bật một phong cách Nam Cao trữ tình, sâu lắng, trào lộng, xót xa, hóm hỉnh mà tế nhị, sang trọng mà bình dị, tinh vi mà khái quát.
Ở đây có cả văn chương, có cả tâm huyết, có cả tài năng lớn của một ước vọng nhân văn cao đẹp mà nhà văn ký thác với cuộc đời. Sự nghiệp văn chương của Nam Cao có thể chia làm 2 thời kỳ rõ nét: Trước cách mạng và sau cách mạng.
Ngay từ những bước đi ban đầu, Nam Cao là một nhà văn hiện thực trong khả năng khái quát những mặt bản chất của xã hội cũ. Khi vật lộn kiếm sống ở Sài Gòn, ông nhận làm thư ký cho một hiệu may và bắt đầu viết các truyện ngắn Cảnh cuối cùng, Hai cái xác.
Các truyện ngắn của ông: Nghèo, Đui mù, Những cánh hoa tàn, Một bà hào hiệp với bút danh Thúy Rư được đăng trên “Tiểu thuyết thứ bảy” và báo “Ích hữu”. Trở ra
Năm 1941, tập truyện đầu tay Đôi lứa xứng đôi (tên trong bản thảo là Cái lò gạch cũ) của Nam Cao do Nhà xuất bản Đời mới (Hà Nội) ấn hành được đón nhận như là một hiện tượng văn học thời đó. Sau này, khi in lại, Nam Cao đã đổi tên là Chí Phèo.
Tác phẩm Chí Phèo - một truyện ngắn xuất sắc được viết từ cái làng yêu dấu gắn với tuổi thơ của ông với những câu chữ đau vào tận gan ruột, viết về số phận người nông dân bị xã hội thực dân phong kiến đàn áp, biến dạng từ bần cùng hóa đến lưu manh hóa, đánh dấu bắt đầu sự nghiệp văn học của ông.
Từ tác phẩm để lại dấu ấn này, cho đến năm 1944, là thời kỳ sáng tác sung mãn và có hiệu quả nhất trong đời viết văn của Nam Cao. Ông đã đạt tới đỉnh cao chất lượng mới: Chất lượng ngôn ngữ nghệ thuật, chất lượng tư duy xã hội và tư duy văn học.
Trong các trang viết của mình, Nam Cao đã nhìn thấy và chỉ cho người đọc thấy cái xã hội trong nô lệ và lạc hậu xứ mình, cái xã hội phân chia đẳng cấp, bất công và phi nhân ấy đã làm tha hóa, biến dạng, biến chất con người ta như thế nào.
Xét một cách tổng thể, sáng tác của ông trước cách mạng tập trung vào hai đề tài lớn: Người tiểu tư sản nghèo và người nông dân, khai thác trực tiếp từ cuộc sống bản thân tác giả và bà con nông dân làng quê... Miêu tả chân thực cuộc sống nghèo khổ, tủi nhục của người tiểu tư sản, Nam Cao đặc biệt đi sâu vào những đau đớn trong tâm hồn của họ và đặt ra những vấn đề có ý nghĩa xã hội sâu sắc.
Đó là cái bi kịch của những kẻ khao khát sống cuộc sống có ý nghĩa chân chính mà cứ bị những lo lắng cơm áo hàng ngày giày vò, phải sống cuộc sống "đời thừa" vô nghĩa như các tác phẩm: Đời thừa, Nước mắt, Trăng sáng, Bài học quét nhà.
Nhiều truyện của Nam Cao cũng đã ghi lại cuộc đấu tranh tư tưởng của người tiểu tư sản, đấu tranh với sự cám dỗ của cuộc sống hưởng lạc tư sản (Quên điều độ, Trăng sáng, Truyện tình); đấu tranh với lối sống ích kỷ, dung tục tiểu tư sản để vươn tới lẽ sống nhân đạo.
Truyện dài Sống mòn (1944) là sự tổng hợp của những sáng tác về đề tài tiểu tư sản của Nam Cao. Truyện dài Truyện người hàng xóm (đăng báo 1944) miêu tả cuộc sống lam lũ tối tăm của một xóm nghèo ngoại ô, nhưng ánh lên cái nhìn lạc quan nhân đạo của những người nghèo khổ.
Với hơn hai chục truyện ngắn viết về nông dân (Chí Phèo, Lão Hạc, Một đám cưới, Một bữa no, Lang Rận, Điếu văn, Mua danh, Tư cách mõ...) Nam Cao đã dựng lên bức tranh về nông thôn Việt
Cùng với nhà văn hiện thực xuất sắc Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, các tác phẩm của Nam Cao thời kỳ 1941-1944 đã góp phần không nhỏ vào thành tựu của dòng văn học hiện thực Việt
Sau Cách mạng Tháng Tám, ngòi bút Nam Cao hoạt động với tư cách ngòi bút của một cán bộ làm báo, làm văn. Ngoài viết văn, ông còn viết tin, làm ca dao, soạn kịch ngắn tuyên truyền, viết hoặc dịch sách phổ thông về địa lý, lịch sử, thời sự. Ông coi đó là “những công việc nhũn nhặn, thầm lặng nhưng có ích”.
Trong mảng sáng tác sau cách mạng, Nam Cao đã để lại nhiều sáng tác có giá trị đặc sắc và tiêu biểu cho văn xuôi kháng chiến thời kỳ đầu. Nhật ký ở rừng (1948) viết trong thời kỳ ông công tác tại Bắc Kạn, đã thể hiện niềm yêu thương ấm áp đối với quần chúng miền núi chất phác mà thiết tha với cách mạng, niềm quyết tâm và tin tưởng của người nghệ sĩ tiểu tư sản trung thực đang nỗ lực vươn lên trong cuộc sống mới.
Truyện ngắn Đôi mắt (1948) là một truyện ngắn thành công nhất của Nam Cao trong kháng chiến. Chuyện biên giới và bút ký Vài nét ghi qua vùng giải phóng viết trong dịp nhà văn tham gia chiến dịch Cao Bằng-Lạng Sơn (1950), là những ký họa sinh động, tràn ngập không khí lạc quan, có những hình ảnh giản dị, đẹp đẽ về chủ nghĩa anh hùng, tất cả toát lên vẻ đẹp và sức mạnh tinh thần của bộ đội, nhân dân trong chiến dịch.
Nghệ thuật viết truyện của Nam Cao có những đặc sắc, độc đáo mà đa dạng. Các tác phẩm của ông vừa rất mực chân thành vừa có một ý vị triết lý, một ý nghĩa khái quát sâu xa. Ngòi bút hiện thực tỉnh táo, nghiêm ngặt vừa sắc lạnh, vừa gân guốc, lại vừa thắm thiết trữ tình.
Nhà văn tỏ ra có sở trường miêu tả tâm lý con người, nhất là khi đi vào miêu tả diễn biến tâm lý tinh tế, phức tạp. Ngôn ngữ văn xuôi của ông cũng mới mẻ, gần gũi với ngôn ngữ của quần chúng, giản dị mà đậm đà, sống động nhất là trong ngôn ngữ đối thoại. Có thể nói, về nhiều mặt, các tác phẩm của Nam Cao đánh dấu một bước phát triển mới của văn xuôi quốc ngữ Việt
* Một vài nét về cuộc đời nhà văn, liệt sĩ Nam Cao
Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri, sinh ngày 29-10-1915 tại làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Xang, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam). Cha ông là Trần Hữu Huệ (1890-1967) thợ mộc, làm thuốc, mẹ là Trần Thị Minh, làm vườn, làm ruộng, dệt vải. Vợ Nam Cao là bà Trần Thị Sen (1916-2002). Nhà văn Nam Cao có 4 người con (3 trai, 1 gái).
Khi còn nhỏ Nam Cao học ở làng và thành phố
Năm 1941, ông dạy học ở Thái Bình. Năm 1942, ông trở về quê, tiếp tục viết văn. Năm 1943, Nam Cao gia nhập Hội Văn hoá Cứu quốc và tham gia phong trào Việt Minh ở địa phương. Cách mạng Tháng Tám (1945), ông tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở phủ Lý Nhân, và được cử làm Chủ tịch xã.
Năm 1946, ông ra Hà Nội, hoạt động trong Hội Văn hóa Cứu quốc và là Thư ký tòa soạn tạp chí Tiên Phong của Hội. Cùng năm đó, ông tham gia đoàn quân
Mùa thu năm 1947, Nam Cao lên chiến khu Việt Bắc, làm phóng viên báo Cứu quốc và làm thư ký tòa soạn báo Cứu quốc Việt Bắc. Năm 1948, Nam Cao gia nhập Đảng cộng sản Đông Dương. Năm 1950, ông nhận công tác ở tạp chí Văn Nghệ (thuộc Hội Văn nghệ Việt Nam) và là ủy viên Tiểu ban Văn nghệ Trung -ương.
Ngày 30-11-1951, trên đường đi công tác vào vùng địch hậu liên khu III, Nam Cao cùng đoàn cán bộ thuế nông nghiệp bị địch phục kích và đã anh dũng hy sinh. Ông ngã xuống khi trang bản thảo cuối cùng của tác phẩm “Định mức” còn chưa khô mực.
Ông đã được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học, Nghệ thuật (đợt 1, 1996) cho các tác phẩm: Nhật ký ở rừng, Đôi mắt (truyện ngắn), Sống mòn (tiểu thuyết), Truyện ngắn chọn lọc (xuất bản năm 1964), Chí Phèo (truyện ngắn), Nửa đêm (truyện ngắn).
Trung tâm Tư liệu-TTXVN
http://binhlong.binhphuoc.gov.vn/3cms/yeu-em-nghe-bao.htm
Trả lờiXóa