Thứ Năm, 12 tháng 11, 2015

CÒN ĐÂU THƯƠNG CHO ROI CHO VỌT - COPPY TRÊM TUỔI TRÈ


-          Tháng 11 - ngoài kia người người đang tung hô, ca ngợi nghề giáo. Đọc những lời ca ngợi, nhận những món quà từ học trò, bỗng dưng tôi thấy thẹn với chính mình.


Ôi nghề giáo! Cái nghề được coi là cao quý trong tất cả các nghề, giờ cũng chỉ là cái cần câu cơm... Không có gió, không có khói mà khóe mắt cay cay. Chẳng biết ngoài kia có ai đồng cảm với tôi không, có ai đó cũng đang trăn trở, có ai đó cũng đang mỗi ngày đến lớp cho xong trách nhiệm rồi về?
Lần tay gỡ tờ lịch. Chạm phải con số, bỗng nhiên thảng thốt: Tháng 11 rồi ư? Hèn gì mà mấy hôm nay ra đường đã thấy những panô, biểu ngữ chuẩn bị cho ngày nhà giáo sắp tới.
Ai đó đã ví nghề giáo như người đưa đò. Cứ mỗi lượt khách sang sông thì người vận chuyển quay về bến cũ. Khách lên bờ và tiếp tục hành trình. Có mấy ai trong muôn vạn người kia một lần về bến cũ? Có mấy ai còn nhớ người đưa đò? Bởi vậy, có người bạn đồng nghiệp đã nói với tôi rằng: “Làm nghề giáo bạc lắm!”.
Thời đó tôi mới ra trường, lòng còn đầy nhiệt huyết, sức trẻ đang hừng hực với những khát khao và cống hiến. Trong lòng tôi chỉ ước ao mỗi ngày được đứng trên bục giảng, say sưa truyền đạt tri thức ấp ủ bấy lâu cho những học sinh thân yêu kia. Cho nên tôi đâu hiểu được hết những ẩn ý trong câu nói của người đồng nghiệp khi ấy.
Rồi thì “thức đêm mới biết đêm dài”. Gần mười năm đi dạy, tuổi đời cũng nhiều, tuổi nghề cũng có, vui nhiều và buồn cũng chẳng ít, thất vọng ê chề cũng ăm ắp. Mỗi ngày, mỗi lần lên lớp lòng cứ giằng co, cứ trăn trở về những cái gọi là quy chuẩn nghề nghiệp. Tôi nghĩ về câu nói “tôn sư trọng đạo” mà bao đời người ta vẫn ca ngợi, rồi bất chợt buồn. Hình như khái niệm đó giữa thời buổi này đã mai một ít nhiều.
Có một thực tế là học trò bây giờ thấy thầy cô giáo cứ ngước mắt nhìn kiểu vô cảm, đến cả phép lịch sự chào hỏi người lớn còn chưa có thì lấy đâu ra cái gọi là “tôn sư”? Tôi không nói là tất cả, tôi không vơ đũa cả nắm, nhưng cách ứng xử như vậy là của đa số học sinh bây giờ. Tôi thấy buồn và tôi thật sự hụt hẫng.
Nhưng không, sự hụt hẫng chưa dừng lại ở đó... Từ hụt hẫng ban đầu chuyển sang cái gọi là thất vọng. Thất vọng khi chân lý “Thương cho roi cho vọt” đã sắp hết thời, hết thông tư này đến nghị định nọ quy định về thái độ, hành vi ứng xử của giáo viên với học sinh trong nhà trường lần lượt ra đời. Hầu như trong buổi họp nào các kiểu quy định cũng được nhắc đi nhắc lại đến nhàm chán.
Bây giờ, ngay cả lời nhắc nhở hơi lớn tiếng cũng được gọi là bạo hành tinh thần học sinh. Chỉ một lời phê thật lòng trên bài làm cũng bị dư luận mang ra mổ xẻ, hay chỉ cần một chút sơ suất không kiềm chế hành động thì với tốc độ lan truyền của mạng xã hội hiện nay, thầy cô bỗng chốc trở thành người có lỗi...
Buồn khi phải co mình lại
Càng nghĩ lại càng xót xa. Học sinh còn quá ngây thơ để nhận ra được những góc khuất của giáo dục. Các em chưa đủ kinh nghiệm sống để nhận ra đâu là tâm huyết của người thầy trong cách giáo dục các em. Nhiều em còn luôn tỏ thái độ khó chịu, thậm chí ghét những thầy cô hay nói nhiều, hay răn dạy...
Và rồi tôi lại xót xa cho chính mình. Từ một sinh viên sư phạm với nhiệt huyết ngày nào, theo thời gian lòng yêu nghề cứ mai một dần. Mắt phải tập làm ngơ với những ngỗ nghịch của học trò, tai phải lờ đi khi nghe các em nói những lời không đẹp, miệng phải khép trước những ứng xử thô lỗ từ phụ huynh... để được yên thân tiếp tục công việc.




- Giáo viên trường tôi tới tháng nhận lương, nhìn số tiền thực nhận và các khoản đóng góp… chỉ biết lắc đầu.
 

Chúng tôi công tác tại một huyện miền núi. Nơi đây núi bao bọc trùng điệp. Toàn thấy mì, mía, vài đám ruộng nhưng chế độ mà chúng tôi được hưởng là phụ cấp xã đồng bằng. Không có gì lạ cả, vẫn có xã đồng bằng của huyện miền núi.
Thu nhập của chúng tôi có gì khác ngoài lương. Muốn dạy thêm cũng không mấy em đi học, tìm công việc để có thu nhập ngoài lương đâu có dễ. Mà thời gian đâu để làm thêm khi yêu cầu dạy - học ngày càng cao. Chắc có bạn sẽ cho rằng trên núi không phải chi tiêu gì nhiều. Nhầm to.
Thử lên nơi chúng tôi đang công tác đi một buổi chợ, các bạn sẽ phải lắc đầu thè lưỡi. Mọi thứ được bán với giá cao vì lý do vận chuyển xa xôi. Giáo viên chúng tôi phải mặc áo dài, đồ công sở lên lớp, muốn mua vải may một cái áo dài, chị em phải chạy xuống phố. Những vật dụng khác cũng vậy. Mấy đồng lương thấm vào đâu?
Đồng lương nhỏ bé, trách nhiệm lớn lao. Chúng tôi phải ra sức học, rèn luyện chuyên môn nghiệp vụ mới mong đáp ứng yêu cầu giáo dục hiện nay. Mấy anh em trong trường đều than rằng: giá như lương đủ nuôi cái miệng thì chúng ta sẽ chỉ nghĩ đến việc dạy.
Cuộc sống chỉ trông chờ vào lương. Nhận lương xong lại ngậm ngùi... Xin thưa, ngậm ngùi vì lẽ lương ít lại bị trừ rất nhiều khoản. Tất cả khoản đóng góp, khi đưa về giáo viên không thể không đóng dù gọi là tình nguyện.
Mà đã là tình nguyện thì tại sao không đóng theo kiểu tự nguyện, tùy mỗi người mà nhất định phải là một ngày, nửa ngày lương? Lương giáo viên tính 26 ngày và hầu như liên tục đóng một ngày lương, nửa ngày lương. Nếu cần tiền làm việc gì cũng không thể nợ để qua tháng sau vì như thế sẽ bị trừ điểm, thi đua cuối năm không còn.
Hỡi ôi!... Nghịch lý thay, tất cả khoản giáo viên được hưởng như: tăng lương cơ bản, chuyển ngạch, phụ cấp thâm niên, tăng bậc lương... hầu như chưa bao giờ chúng tôi được hưởng liền, cứ phải đợi dài cổ rồi truy lĩnh. Khi nhận thì trượt giá rồi. Nhưng chúng tôi không thể nợ các khoản đóng góp?
Năm nào cũng như năm nào, ngoài các khoản bắt buộc như bảo hiểm các loại, công đoàn phí thì chúng tôi đều đặn đóng các khoản (trên danh nghĩa gọi là tình nguyện nhưng phải bắt buộc đóng): quỹ tang chế, ủng hộ nạn nhân chất độc da cam, quỹ mái ấm gia đình, quỹ vì người nghèo, quỹ đền ơn đáp nghĩa, chữ thập đỏ, quỹ tương trợ công đoàn cơ sở, quỹ tương trợ công đoàn ngành, huyện, ủng hộ bão lụt, tương trợ trẻ em, quỹ tương trợ ngành tỉnh, quỹ vì phụ nữ nghèo, quỹ ngân hàng bò, quỹ tiếp sức cho em đến trường...
Chỉ riêng quỹ tương trợ có đến ba chỗ để đóng: cơ sở, ngành, tỉnh... Đã vậy, các khoản hỗ trợ đã đóng ở trường rồi, về nhà thì địa phương lại đến nhà thu tiếp. Từ chối thì được trả lời chỉ tiêu trên đưa xuống, phải thu.
Nói ra thành nhỏ mọn, không nhân ái, không có tinh thần “lá lành đùm lá rách”, nhưng một người đau chân thì làm sao quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến người khác. Phải thắt lưng buộc bụng để nộp các khoản gọi là “tình nguyện”.
Trong khi đa số giáo viên (ít ra là trường tôi) xuất thân là con nông dân, ra đi dạy, phần lo cho gia đình, phần lo cho bản thân. Lương ít ỏi tháng nào ăn hết tháng đó, lấy đâu tiền để đám cưới, mua đất, cất nhà, mua xe, vi tính, điện thoại...
Tóm lại muốn mua gì, sắm gì thì đến ngân hàng. Không trả nổi theo hợp đồng, chúng tôi oằn ra trả lãi quá hạn. Ngày ngày đến lớp trang phục chỉnh tề, giảng dạy nhiệt tình, hoạt động ngoại khóa tích cực, có đủ loại hồ sơ sổ sách... và đóng búa xua các khoản hỗ trợ. Có biết giáo viên chúng tôi trả lãi ngân hàng hằng tháng?
                                                                                                     M.M -  TUỔI TRẺ
05/11/2015 09:27 GMT+7
TT - Sau bài viết “Còn đâu “thương cho roi cho vọt”” ngày 4-11, Tuổi Trẻ đã nhận được nhiều phản hồi từ các thầy, cô giáo gửi về tâm sự về nghề giáo nhân Ngày nhà giáo Việt Nam 20-11 đang gần đến.
\

Xin đừng “tôn vinh” quá mức nữa...
Tôi yêu thích nghề giáo khi còn học lớp 8, lớp 9 (hệ 10 năm ở miền Bắc) vì thần tượng của chúng tôi thuở ấy là thầy cô giáo trong trường. Thầy cô ngày đó luôn được phụ huynh, học trò nể phục, kính trọng dù thỉnh thoảng chúng tôi bị thầy cô la rầy, nặng lời trước lớp. Những lúc đó, bản thân học trò tự giác, vui vẻ chấp nhận; luôn nghĩ phần lỗi thuộc về mình và tự nhủ cần phải cố gắng. Không hề có một lời trách móc, đổ lỗi cho thầy cô...
Tôi nhập ngũ và vào miền Nam chiến đấu, nhưng giấc mơ vào ngành sư phạm vẫn không nguôi ngoai dù lắm lúc cận kề cái chết. Tôi tự nhủ nếu chẳng may hi sinh thì thôi, còn sống đến ngày hòa bình nhất định sẽ đi học nghề sư phạm.
Năm 1977, sau khi tham gia các trận đánh ở biên giới Tây Nam, tôi được đơn vị cử đi ôn thi đại học và thi đậu vào ngành văn Đại học Cần Thơ. Bốn năm sau, tôi trở thành thầy giáo về dạy ở một trường vùng sâu...
Nói hơi dài dòng một chút vì con đường sư phạm do tôi chọn không phải bộc phát, tức thời mà vì niềm say mê, sự phấn đấu và quyết tâm để trở thành “kỹ sư tâm hồn”. 
Ra trường năm 1981, thời “bao cấp” biết bao thiếu thốn, vất vả nhưng tinh thần luôn thoải mái vì mình đạt được ước nguyện theo nghề giáo cao quý...
Nhưng càng ngày càng có những ràng buộc đối với nghề giáo với đủ thứ quy định. Có lẽ người ta muốn thầy cô giáo phải trở thành những tấm gương sáng cho học sinh, cho phụ huynh và cho cả toàn xã hội. Thầy cô phải thánh thiện, phải ăn nói dịu dàng, nhẹ nhàng; thầy cô phải tươi cười mặc dù tiền đã cạn mà lương chậm, chưa có kịp thời, chưa có tiền mua sữa cho con...
Các quyền làm thầy mất dần như không được la rầy các em trước lớp khi các em vi phạm nội quy, không được nêu tên những học sinh vi phạm kỷ luật trong buổi sinh hoạt dưới cờ đầu tuần... Thầy cô có trách nhiệm phải hiểu học sinh, không được áp đặt hoặc “bạo hành” bằng việc làm và trong cả lời nhắc nhở, răn dạy! Nói gọn lại là phải “kính trọng” học sinh, phụ huynh...
Ngược lại, học sinh ngày nay được “giao quyền” rất nhiều. Đó là quyền dân chủ trong trường học, học sinh có quyền góp ý với thầy cô giáo. Học sinh có quyền trẻ em, không ai được xúc phạm đến trẻ em. Rồi tác động của xã hội vào môi trường giáo dục khiến thầy cô giáo bao phen khổ sở vì học sinh ngày càng hỗn hào; không tôn trọng thầy cô, nhà trường. “Tôn sư trọng đạo” có nguy cơ trở thành khẩu hiệu!
Đến hẹn lại lên! Tháng 11 đã về và những lời tôn vinh nghề giáo lại có dịp nở rộ. Xin đừng tôn vinh quá mức nữa mà hãy hành động bằng việc làm cụ thể để thầy cô giáo, để nghề dạy học trở về ngày xưa - thuở “nhất tự vi sư, bán tự vi sư” được xã hội coi trọng thật lòng!LÊ LAM HỒNG
Ai đã góp phần làm tàn lụi lòng yêu nghề?
Đọc xong bài báo, tôi cũng thấy cay cay nơi mắt mình. Thiệt tình trong lòng tôi thấy thương cho thầy cô giáo đang ngày ngày lên lớp; họ cứ lầm lũi đến trường hằng ngày, lầm lũi dạy và khi làm xong phận sự, vội vã về nhà lo toan cơm nước, con cái, nhà cửa...
Rất nhiều người đam mê nghề giáo và họ dấn thân vào nghề này như một sự hi sinh, chấp nhận. Nhưng buồn thay, ngọn lửa nhiệt tình tàn lụi dần qua những năm tháng đối mặt với “những điều trông thấy mà đau đớn lòng”!
Họ phải từ bỏ con người thật của mình để ép mình theo đúng những quy chuẩn, quy định. Một hành vi vô lễ, một việc làm vi phạm nội quy của học sinh diễn ra trước mắt nhưng người thầy lắm lúc phải thực hiện bốn không: “không nghe, không thấy, không biết, không nói”.
Có mắt mà phải làm như không thấy, có tai mà phải làm như không nghe, có trí mà phải làm như không biết và có miệng mà phải làm như người vô cảm vậy! Còn đau đớn nào bằng! Họ phải cố nén dằn cảm xúc, phải nén cơn đau buồn vào trong lòng rồi tự an ủi mình: “Nói ra, dạy nó thì nó không nghe, ích gì!”.
Nhiều lúc tôi cũng tự hỏi mình làm nghề giáo là nghề như thế nào mà được xã hội trân trọng, được cho là “nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý”? Phải chăng đây là nghề trực tiếp tiếp xúc với con người? Là nghề dạy chữ, dạy làm người cho học sinh? Những nghề khác cũng vậy sao không được tôn vinh?
Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà cha ông ta bao đời quý trọng nghề dạy học! “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” - hiền tài có được từ nhà trường, từ công lao dạy dỗ của các thế hệ đội ngũ thầy cô từ xưa đến nay.
Nhưng người thầy hiện nay vì sao chưa tận tâm dạy dỗ, chưa hết lòng vì con trẻ? Chính những quy định, những chế tài của ngành đã “góp phần” làm lụi tàn nhiệt tình yêu nghề, mến trẻ của không ít giáo viên mà nội dung bài báo là một thí dụ...

LÊ THỊ XUÂN HƯƠNG
Khúc ca Bình Long



Bình Long vùng đất yên bình,
 Năm năm tên mới - thị thành sang trang.
Từ vùng đất đỏ ba - gian,
Một thời quật khởi, quê hương anh hùng.

Chiến dịch Nguyễn Huệ lẫy lừng.
Vang danh một thuở, lập công để đời.
Bây giờ dân khắp muôn nơi…
Màu xanh quê mới gọi mời về đây.

Đổi thay thị xã từng ngày
Lòng dân,  ý đảng chung tay làm giàu.
Hai bên đường phố nhà cao,
Bóng cây râm mát, tự hào niềm tin.

Nhiều con đường mới mở thêm
Hàng cây ngõ phố khắc tên anh hùng.
Đường Ngô Quyền, đường Quang Trung…
Thênh thang dẫn lối vào trong nội thành.

Bình Long như một bức tranh.
Tiềm năng phát triển, màu xanh gọi mời
Nhớ lời Bác dạy trọn đời,
Đồng lòng xây dựng bầu trời quê hương.


                                                                                                                           Bình Long, 23/3/2014









             
ĐI TRÊN ĐƯỜNG BÌNH LONG



Mình cùng nhau,
Dạo trên đường Bình Long tiếng ve ngân hạ đến.
Bầu trời xanh trong, hàng cây cao rợp bóng
Phố nhỏ yên bình chung bước bên nhau.

Tràn ngập niềm vui!
Những con đường rợp bóng cây xanh
Tên tuổi anh hùng lịch sử đã gắn tên
Là Nguyễn Huệ, đại thi hào Nguyễn Du và danh nhân Nguyễn Trãi….
Thênh thang trải dài, bao mới lạ thân quen.

Để hôm nay anh và em  hòa chung niềm hạnh phúc.
Cùng mơ ước một ngày phía trước
Thị xã quê mình cùng mọi miền đất nước,  
Hội nhập với năm châu.

Rộn ràng thay,
Đi trên những con đường nhộn nhịp yên vui.
Nhớ lại bao chiến công ngày trước
     Cùng hòa chung nhịp bước
Và cầm tay nhau, ngập tràn niềm tin.

Giờ đây
Di sản Quốc gia là Mộ ba nghìn người,
Đã thành công viên văn hóa quê hương.
Chiều về trên khắp các ngả đường,
Học sinh cùng nhau vui đùa nhộn nhịp
Tượng đài Kim Đồng nhắc các em thơ chăm học
Lời dạy Bác Hồ soi rạng lối con đi.

Tự hào biết mấy!
Khi buổi chiều về đi trên đường thị xã,
Nghe quen tiếng hát:
“Bình Long ngày mới” ngân vang.

   Bình Long,  tháng 5/2014



BÌNH ĐẲNG GIỚI NHÌN TỪ HAI PHÍA 
Bình đẳng giới là vấn đề rất quan trọng trong xã hội cũng như trong gia đình. Chúng ta đã thực hiện Luật Bình đẳng giới, thế nhưng không phải tất cả mọi người đều đã hiểu bình đẳng giới một cách đầy đủ. Thật ra bình đẳng giới là sự thừa nhận như nhau về các đặc điểm giống và khác nhau giữa nam giới và nữ giới; là phụ nữ và nam giới được coi trọng như nhau; cùng được tạo điều kiện, cơ hội để phát huy khả năng và thực hiện các mong muốn của mình; cùng có cơ hội để tham gia, đóng góp và thụ hưởng từ các nguồn lực của xã hội và quá trình phát triển.. Tuy nhiên, bình đẳng giới không phải là sự ngang bằng trong tất cả các hoạt động, càng không phải là sự hoán đổi vai trò, vị trí của phụ nữ sang nam giới và ngược lại, cũng không phải sự ngang bằng về mặt số học, không phải là anh 1 ly, tôi 1 ly trong sinh hoạt, xã giao.
Ngang là ngang bằng về việc khẳng định năng lực, kết quả hưởng thụ, quyền riêng tư.  Thực tế trong xã hội hiện đại, đã có nhiều phụ nữ thành đạt, nắm giữ các vị trí quan trọng, tuy nhiên, nếu so sánh về tỷ lệ thì số người này so với nam giới vẫn rất thấp trong khi tỷ lệ nam - nữ.  Với Việt Nam ta, quốc gia mới thoát ra khỏi cơ chế tổ chức chính trị phong kiến 70 năm nay. Trong tiến trình phát triển đất nước, phụ nữ đã và đang có những đóng góp xứng đáng và ngày càng có nhiều phụ nữ thành đạt, nắm giữ các vị trí quan trọng. Tuy nhiên, tỷ lệ đó vẫn còn rất thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, sự đóng góp của phụ nữ. Cũng có nhiều nguyên nhân, mà nguyên nhân bao trùm là định kiến giới vẫn còn tồn tại cả trong gia đình, cả về chính sách xã hội, cả trong quan niệm, nhận thức và hành động của nhiều người. Mặt khác, tự bản thân phụ nữ cũng còn nhiều rào cản, một số phụ nữ vẫn chưa thực sự phấn đấu vươn lên để khẳng định vị thế, vai trò của mình. Trong đó nhiều người vẫn còn quan niệm việc chính trị, chính trường là việc “nặng”, việc  phù hợp với đấng mày râu nên ngại tham gia, không dám dấn thân mà chịu an phận.
Trong khoảng 20 năm trở lại đây, công tác cán bộ nữ cũng đã có biến chuyển nhất định, số lượng cán bộ nữ có được tăng cường trên một số lĩnh vực. Tuy nhiên, cán bộ nữ giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý chủ chốt trong cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể và tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy, HĐND các cấp chưa tương xứng với vai trò cũng như lực lượng lao động nữ. Nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị, chương trình hành động và kế hoạch thực hiện chiến lược quốc gia về bình đẳng giới, nhưng nhìn chung cũng chưa tương xứng với thực tế nguồn lực vốn có về nữ giới hiện nay. Gần nhất nhân sự trúng cử vào Ban chấp hành đảng bộ của thành phố năng động như thành phố Hồ Chí Minh cũng chỉ 04/15, tương đương 2,6% là ủy viên nữ.
Khía cạnh gia đình, việc thực hiện bình đẳng giới còn là vấn đề khá nhạy cảm. Một số người cho rằng đã có sự nhầm lẫn giữa bình đẳng giới và thiên chức. Việc nội trợ (nấu nướng, giặt giũ, lau dọn nhà cửa...) thường là phụ nữ làm, việc nặng đòi hỏi sức mạnh cơ bắp là của nam giới, thế nhưng phụ nữ cứ than phiền nam giới không không phải “chịu trách nhệm” với những việc đó mà thực hiện những việc nặng kia thì không thấy than phiền. Từ thực tế đó ta thấy rằng ngay quan niệm đó là không khách quan. Vì thực tế chẳng có văn bản nào quy định phụ nữ phải đảm đương công việc nội trợ, còn nam giới phải làm này làm khác cả.  Nhà thơ Xuân Quỳnh nói “Các anh quan tâm đến chuyện mất còn của các quốc gia/…biết bao điều quan trọng/….những hiệp ước”; Còn phụ nữ chỉ là “Những người đàn bà bình thường/…không tên tuổi/…quen việc nhỏ nhoi bếp núc hàng ngày….”. Cũng chỉ nói mang tính vui vẻ là chính. Tuy nhiên từ trong nhận thức của người Á Đông bao đời nay, sự “phân chia” ngầm về giới trong công việc gia đình, sắp xếp xã hội ấy cứ như một lẽ tự nhiên. Nhưng công bằng mà nói, người phụ nữ vốn dĩ đã giữ một bổn phận rất cao cả, nhân văn. Đó là sinh đẻ, nuôi dưỡng con cái để duy trì nòi giống. Đó là Thiên chức mà trời đã ban cho giới nữ. Chức trách của trời dành riêng cho phụ nữ, nên cao cả và thiêng liêng. Vì vậy bình đẳng về giới tính ở đây là người đàn ông phải có bổn phận với sự ủy thác trời dành cho phụ nữ đó. Người chồng, người cha phải là trụ cột, chỗ dựa cho phái yếu là điều hiển nhiên của tạo hóa phân chia.  
Tuy nhiên, thời đại nào cũng thế. Đặc biệt ngày nay, khuôn phép giáo huấn của Nho giáo phai nhạt thì sự “phân chia” nam - nữ, chồng – vợ không nên rạch ròi quá với mỗi người.  Bởi, cuộc sống thì song song cùng với tình yêu là trách nhiệm và phải san sớt, cảm thông: “Chia ngọt sẻ bùi”. Sự chia sẻ này, theo tôi – một người đàn ông trung niên, cũng phải nhìn khách quan ở khía cạnh sức khỏe về giới; nam khỏe hơn nữ. Sự chia sớt để được phù hợp này dân gian có câu “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”, để nói về thiên chức hay trách nhiệm của mỗi giới Về thiên chức. Dù xã hội nào đi nữa, người phụ nữ vẫn là quan trọng trong việc “xây tổ ấm”. Chị em phụ nữ luôn được coi là tay hòm tay chìa khóa, là người giữ lửa trong gia đình. Và cũng từ đó để nói đến vai trò quan trọng của nam giới là người đàn ông trụ cột thì phải biết chu toàn trọng trách gia đình. Đó là bổn phận phái mạnh. Phụ nữ là người biết giữ gìn bình yên. Đó là thiên chức, nhưng cũng có nhiều phụ nữ dấn thân lo toan cáng đáng kinh tế, trọng trách gia đình. Về khách quan cũng phải hiểu cho tâm trạng, khả năng của phụ nữ thì không nên đặt việc “Nhà” hay việc “Nước” làm trọng. Mà biết hài hòa, đừng để việc nhà cao hơn việc xã hội và ngược lại. Những người phụ nữ thành đạt đó là người phải biết cân bằng giữa sự nghiệp và gia đình. Là người biết vượt qua những định kiến của xã hội, vượt lên chính mình, biết học hỏi, biết quan tâm và chia sẻ, tự tin, năng động, dám nghĩ, dám làm, có bản lĩnh, có định hướng cho sự nghiệp, biết hài hòa giữa công việc với cuộc sống thường ngày.
Dù sao trong sự thành công của bất cứ người đàn ông hay người phụ nữ, thì gia đình luôn là điểm tựa, là nền tảng vững chắc. Sắp xếp ôn hòa giữa chồng -  nam và vợ - nữ là niềm động viên, cổ vũ lớn lao nhất để mỗi người có thể yên tâm công tác tốt. Ta hay truyền miệng với nhau rằng đằng sau sự thành công của người đàn ông luôn có bóng dáng của một người phụ nữ. Có lẽ câu này nên cân đối cả hai giới mới phải. Vì nếu người vợ có tháo vát, giỏi giang, đảm đang đến mấy mà gặp người chồng bê tha thì người phụ nữa ấy có giữ được cuộc sống cho bền không.
Quyết Lam